- Giới thiệu
Loét do tì đè là một tình trạng dễ gặp không chỉ ở bệnh nhân liệt tủy, mà có thể gặp ở mọi đối tượng người bệnh phải nằm lâu trên giường, hay một số bệnh lý khác, do nhiều yếu tố gây nên. Loét do tì đè không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, mà còn gây ra gánh nặng cho hệ thống y tế do chi phí điều trị.
Các quan điểm hiện đại cho rằng, để kiểm soát tình trạng loét do tì đè, cần điều trị và chăm sóc bệnh nhân toàn diện trên nhiều phương diện khác nhau, với sự tham gia của bác sĩ nội khoa, bác sĩ chuyên ngành xử lý các vết thương hay loét da, bác sĩ tâm thần/chuyên gia tâm lý, chuyên gia vật lý trị liệu, chuyên gia dinh dưỡng, và không thể thiếu sự chăm sóc của đội ngũ điều dưỡng cũng như người nhà.
- Các yếu tố nguy cơ
Có nhiều yếu tố nguy cơ khiến người bệnh dễ mắc tình trạng loét tì đè hơn sau khi tổn thương tủy sống. Những yếu tố này có thể chia sơ bộ thành nhóm nội sinh hay ngoại sinh. Các yếu tố nội sinh là những yếu tố sức khỏe nội tại của người bệnh. Chúng bao gồm liệt vận động, teo cơ, hạn chế di chuyển, giảm cảm giác, suy dinh dưỡng, thiếu máu, và tổn thương mạch máu do bệnh lý mạch máu lớn hay mạch máu nhỏ. Nhiều tình trạng bệnh lý và lối sống có thể dẫn đến tăng nguy cơ nội tại của PU như đái tháo đường hay các bệnh lý gây thiếu máu, suy dinh dưỡng; các bệnh lý thần kinh cơ, như viêm đa myelin, xơ cứng teo cơ bên, hay các bệnh đa dây thần kinh trầm trọng; cũng như mọi bệnh lý mắc phải, như tổn thương tủy sống, đột quỵ, chấn thương sọ não, dẫn đến giảm chức năng vận động và/hoặc cảm giác. Những lựa chọn lối sống như hút thuốc lá và nghiện rượu cũng đi kèm với tăng nguy cơ tiến triển loét do tì đè. Một số yếu tố nguy cơ nội sinh dễ khắc phục hơn những yếu tố khác. Ví dụ, cai thuốc lá dễ hơn điều trị teo cơ do bệnh lý thần kinh cơ.
Các yếu tố ngoại sinh có bản chất môi trường, bao gồm môi trường tại chỗ xung quanh da (độ ẩm có thể thay đổi theo tình trạng tiết mồ hôi và tình trạng cơ tròn), áp lực tạ da và lực kéo giữa da và bề mặt nâng đỡ (khi ngồi, nằm giường), lực ma sát, và sự hỗ trợ tâm lý-xã hội. Nhiều yếu tố ngoại sinh có sự tương tác với các yếu tố nội sinh. Ví dụ, hạn chế vận động có thể gây yếu cơ tròn bàng quang-hậu môn trực tràng, làm thay đổi vi môi trường quanh da do tăng độ ẩm dư thừa từ đó tăng nguy cơ PU. Một ví dụ khác là suy dinh dưỡng dẫn đến teo cơ, vì vậy ảnh hưởng tiêu cực đến áp lực bề mặt giữa vùng da chịu lực của cơ thể và bề mặt nâng đỡ.
Một số vai trò chủ chốt của các nhân viên y tế được liệt kê trong bảng dưới đây:
Vai trò của các thành viên chính chăm sóc y tế cho bệnh nhân loét do tì đè
Chuyên gia y tế Vai trò
Bác sĩ nội khoa Điều trị tối ưu các bệnh lý tiềm ẩn, như đái tháo đường hay bệnh mạch máu ngoại vi
Điều dưỡng • Hoàn thiện bảng đánh giá chăm sóc nguy cơ loét do tì đè
- Đảm bảo bệnh nhân có tư thế nằm phù hợp, giảm áp lực khi nằm
- Xử trí tình trạng són tiểu phù hợp
Chuyên gia dinh dưỡng Tích cực đánh giá các vấn đề dinh dưỡng do đái tháo đường, nuốt nghẹn
Chuyên gia vật lý trị liệu Nhận định các vấn đề tư thế của người bệnh
và trị liệu nghề nghiệp
Chuyên gia tâm lý • Đánh giá nguy cơ vấn đề nhận thức có thể cản trở việc phòng tránh loét do tì đè
- Tư vấn cai thuốc lá
Phân độ loét do tì đè của Hội đồng tư vấn quốc gia Hoa Kỳ về loét do tì đè NPAUAP
Phân độ loét Đặc điểm
Nghi ngờ có Vùng da khu trú còn liền nhưng màu sắc sẫm hơn màu da bình thường của người bệnh
tổn thương mô
sâu
Phân độ I Thấy rõ các vùng da liền nhưng màu sẫm nhẹ, màu hơi đỏ dai dẳng. Những
bệnh nhân vốn có màu da sẫm có tổn thương màu tối hơn, như đỏ tía, xanh dương, hay tím.
Phân độ II Vết thương nông hoặc trên bề mặt, dạng tróc hoặc hố gây mất một phần da.
Phần da mất có thể bao gồm thượng bì, trung bì hoặc cả hai
Phân độ III Mất đủ các thành phần da. Biểu hiện lâm sàng là các hố sâu trên da, có thể
tổn thương cả lớp mỡ dưới da. Có thể lan sâu xuống lớp mạc bên dưới, mặc dù thường không thấy xương, gân, cơ.
Phân độ IV Mất đủ các thành phần da, lan sâu qua lớp mạc bên dưới, với các bằng chứng
tổn thương mô, hoại tử rõ rệt, và/hoặc tổn thương cơ, xương, các cấu trúc hỗ trợ.
Không thể phân độ Mất đủ các thành phần da, giường vết thương có dịch hoặc vảy tiết, có thể
cắt lọc hoặc để rụng tự nhiên.