Dinh dưỡng là một khía cạnh thiết yếu trong công tác chăm sóc bệnh nhân liệt tủy. Ở giai đoạn cấp tính, bệnh nhân tăng cường độ chuyển hóa, nhu cầu dinh dưỡng do đó cũng tăng. Về giai đoạn mạn tính, bệnh nhân sử dụng ít năng lượng hơn so với người bình thường. Các bệnh nhân mắc tổn thương tủy sống có nguy cơ cao bị béo phì, đái tháo đường, hội chứng chuyển hóa, các bệnh lý tim mạch, cũng như một tình trạng cực kỳ phổ biến và khó xử trí nếu đến muộn, đó là loét do tì đè.
Do những khác biệt về vấn đề thể chất, chỉ số khối cơ thể (BMI) rất khó có thể áp dụng chính xác với các bệnh nhân tổn thương tủy sống. Hai phương pháp tính sự giảm khối lượng thể trọng dành cho bệnh nhân liệt tuỷ tính theo số cân hoặc số phần trăm được đề xuất như sau:
- Liệt hai chi dưới (a) giảm 5-10% so với khối lượng chuẩn hay (b) giảm 10-15 lb so với khối lượng chuẩn
- Liệt tứ chi, (a) giảm 10-15% so với khối lượng chuẩn hay (b) giảm 15-20 lb so với khối lượng chuẩn
Đối với các bệnh nhân liệt tủy, đo calories gián tiếp là một phương pháp được ưa chuộng để xác định nhu cầu năng lượng ở bệnh nhân tình trạng nặng. Công thức Harris-Benedict được dùng để tính số calorie cần thiết bằng tốc độ chuyển hóa nền (BMR) cụ thể là:
■■ Nam giới: BMR = 66 + (13.7 × cân nặng kg) + (5 × chiều cao cm) – (6.76 × tuổi)
■■ Nữ giới: BMR = 65.5 + (9.6 × cân nặng kg) + (1.8 × chiều cao cm) – (4.7 × tuổi)
Ở bệnh nhân SCI, có thể áp dụng chính xác công thức Harris-Benedict dựa trên cân nặng khi vào khoa, với hệ số thương tổn 1.2 và hệ số stress 1.1 nếu không có buồng đo calorie gián tiếp. Trong giai đoạn PHCN, có thể tính nhu cầu năng lượng khi nhân 22.7 kcal/kg cho bệnh nhân liệt tứ chi, 27.9 kcal/kg cho bệnh nhân liệt hai chi dưới.
Nhu cầu protein hàng ngày trong pha cấp tổn thương tủy sống nhân 2.0 g protein/kg với thể trọng thực. Trong giai đoạn PHCN, tính theo hệ số 0.8-1.0 g protein/kg cân nặng để duy trì tích trữ đủ protein với bệnh nhân không hình thành loét do tì đè hay nhiễm khuẩn.
Trọng tâm dinh dưỡng phòng chống loét do tì đè
Để dự phòng và xử trí loét do tì đè, các cơ sở hay bệnh viện sẽ có các bác sĩ chuyên khoa dinh dưỡng tiến hành đánh giá mọi bệnh nhân liệt tủy về các yếu tố nguy cơ liên quan đến loét. Đánh giá dinh dưỡng bao gồm xét nghiệm các chỉ số sinh hóa và nhiều yếu tố khác, như lượng thức ăn/uống hàng ngày, thay đổi cân nặng, chẩn đoán, cách sinh hoạt, thuốc điều trị. Duy trì các thông số dinh dưỡng ổn định có thể giúp giảm nguy cơ hình thành loét do tì đè.
Đánh giá dinh dưỡng trong liền loét
Những bệnh nhân loét do tì đè có nguy cơ thất thoát protein, do đó một số chỉ số trong lâm sàng thường dùng để theo dõi ở bệnh nhân loét là albumin và prealbumin. Đánh giá protein phản ứng C thường xuyên có thể giúp phân biệt liệu prealbumin có chịu ảnh hưởng của stress và phản ứng viêm hay không. Prealbumin cũng có thể duy trì khi bệnh nhân có tình trạng suy dinh dưỡng.
Trọng tâm dinh dưỡng trong liền vết thương
Năng lượng thúc đẩy đồng hóa, tổng hợp collagen và nitrogen, tăng liền vết thương. Nhu cầu năng lượng ở bệnh nhân tổn thương tủy sống và loét do tì đè có thể đo bằng các công thức dự đoán nếu không thể đo calorie gián tiếp, dùng hệ số 30-40 kcal/kg thể trọng mỗi ngày hoặc yếu tố stress theo Harris-Benedict (1.2 với loét do tì đè độ II, 1.5 với độ III và IV).
Protein đóng vai trò thiết yếu để tổng hợp collagen. Protein thất thoát qua dịch tiết vết thương, dẫn đến thiếu chất và chậm liền.65 Lượng protein thất thoát mỗi ngày tăng từ 2-1.5 g/kg thể trọng ở loét do tì đè độ II đến 1.5-2.0 g/kg với loét do tì đè độ III và IV. Nồng độ protein cao (> 2 g/kg) được chứng minh có góp phần gây mất nước ở bệnh nhân cao tuổi. Do đó, nhu cầu protein phải được cá thể hóa do có những bệnh nhân chống chỉ định tiêu thụ protein cao vì bệnh nền gan thận.
Nhu cầu nước của bệnh nhân liệt tủy và loét do tì đè
Các đề xuất về nước hiện nay dựa trên chỉ dẫn cho cộng đồng những người không liệt tủy. Nhu cầu cung cấp nước cần thiết là từ 30-40 mL/kg. Có thể cần bổ sung nước (10-15 mL/kg) với những bệnh nhân dùng nệm khí hóa lỏng ở nhiệt độ trên 31-34°C.
Vitamins và khoáng chất
Chế độ ăn uống cân bằng giúp cung cấp đầy đủ vitamin và khoáng chất. Lượng vi chất cần bổ sung để thúc đẩy liền loét do tì đè còn chưa rõ do chưa đủ tài liệu và nghiên cứu.
Thiếu một số chất dinh dưỡng nhất định sẽ biểu hiện kém hoặc chậm liền vết thương. Cần kê thuốc bổ sung khi xác định hay nghi ngờ thiếu chất hay bệnh nhân ăn kém. Bệnh nhân mắc tổn thương tủy sống có loét do tì đè nên xét chỉ định dùng multivitamin và khoáng chất bổ sung hàng ngày.60 Cần cẩn thận khi kê thuốc bổ hay vi chất cho từng người bệnh. Liều dùng và khoáng chất không nên vượt mức 100% RDA. Chỉ khi có bằng chứng thiếu chất thực sự mới nên kê các vi chất đơn lẻ. Bác sĩ dinh dưỡng cần đánh giá lại hiệu quả của việc dùng thuốc bổ sung mỗi 7-10 ngày.
Ascorbic acid đặc biệt thiết yếu cho sự sinh tổng hợp collagen. Thiếu ascorbic acid đi kèm chậm liền vết thương, suy giảm chức năng miễn dịch. Bổ sung ascorbic acid được chứng minh giúp thúc đẩy liền vết thương nhưng chỉ trên bệnh nhân thiếu ascorbic acid. Bệnh nhân có nguy cơ thiếu ascorbic acid bao gồm nhóm người cao tuổi, hút thuốc lá, lạm dụng thuốc, stress sức khỏe. Đề xuất bổ sung vitamin C hàng ngày hiện nay với bệnh nhân thiếu chất là 100-200 mg với loét do tì đè độ I-II, 1000-2000 mg với loét do tì đè độ III-IV. Bệnh nhân suy thận có nguy cơ cao mắc sỏi oxalate, do đó lượng bổ sung ascorbic acid mỗi ngày không nên vượt quá 60-100 mg.
Kẽm cần thiết cho sự nhân đôi và sinh trưởng tế bào cũng như sinh tổng hợp protein, collagen. Tình trạng thiếu kẽm thường gặp ở bệnh nhân tiêu chảy, kém hấp thu, stress tăng chuyển hóa. Nếu có chỉ định bổ sung kẽm, nên chia liều không quá 40 mg kẽm nguyên tố mỗi ngày trong vòng không quá 2-3 tuần. Bổ sung kẽm không có ý nghĩa nếu bệnh nhân không thiếu kẽm. Nồng độ kẽm huyết tương cao có thể ức chế liền vết thương do giảm thực bào và ảnh hưởng đến chuyển hóa đồng. Chống chỉ định bổ sung kẽm với những bệnh nhân loét dạ dày-tá tràng. Triệu chứng ngộ độc kẽm bao gồm buồn nôn, nôn, chán ăn, đau bụng, tiêu chảy, đau đầu.
Nhu cầu dinh dưỡng và chức năng đường ruột
Để đảm bảo chất lượng phân tối ưu, bệnh nhân tổn thương tủy sống và có chi phối liệt ruột cần tiêu thụ tối thiểu 1.5 lít nước mỗi ngày. Nhu cầu chất lỏng được tính bằng 1 mL/kcal nhân với nhu cầu năng lượng ước tính cộng thêm 500 mL, hoặc 40 mL/kg thể trọng cộng thêm 500 mL. Lượng chất xơ nên bắt đầu ở mức 15 g/ngày sau đó tăng dần và không vượt quá 30 g/ngày. Tuy nhiên, tiêu thụ quá nhiều chất xơ trên 20 g/ngày có thể dẫn đến tăng thời gian lưu thức ăn tại ruột không cần thiết.